Thủ tướng: Thương trường là chiến trường, cần tạo động lực, truyền cảm hứng cho doanh nhân và phát động toàn dân thi đua làm giàu
Trình bày chuyên đề tại Hội nghị toàn quốc
quán triệt và triển khai Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế
tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng "thương trường là chiến
trường", cần tạo động lực, truyền cảm hứng cho các thương nhân - chiến sĩ
trên mặt trận kinh tế và phát động phong trào toàn dân thi đua làm giàu trên
phạm vi cả nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thủ tướng cho biết, Nghị quyết 68 đã chỉ rõ 5 quan điểm chỉ đạo mang tính
đột phá và 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng,
cấp bách nhất đối với phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) hiện nay.
Về nội dung chính của Nghị quyết 68, Thủ tướng nêu rõ các quan điểm chỉ
đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và việc tổ chức thực hiện - Ảnh:
VGP/Nhật Bắc
Sáng 18/5, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt
và triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị
về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính
trị về phát triển KTTN.
Tại hội nghị, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng
Chính phủ đã trình bày Chuyên đề về nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết
68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển KTTN và Kế hoạch hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết.
Thủ tướng trước hết nhấn mạnh, Nghị quyết 68 được xây dựng, ban hành rất
nhanh dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm. Sau khi Nghị quyết 68 được ban
hành ngày 4/5, trong vòng 13 ngày, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành 3 nghị quyết
để thể chế hóa và triển khai. Điều này cho thấy sự chuẩn bị kịp thời, nhanh
chóng nhưng cũng rất chu đáo, chất lượng, với tinh thần làm việc rất khẩn
trương, nghiêm túc, dưới sự chỉ đạo, quan tâm của Bộ Chính trị và đồng chí Tổng
Bí thư.
Thủ tướng tập trung trình bày 5 nhóm nội dung chủ yếu: (1) Khái quát thực
trạng khu vực KTTN; (2) Các nội dung cốt lõi của Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ
Chính trị; (3) Các nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 16/5/2025
của Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ; (4) Các nội dung trọng
tâm của Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ
chế, chính sách đặc biệt phát triển KTTN và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày
17/5/2025 của Chính phủ về Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 của
Quốc hội; (5) Tổ chức thực hiện.
Kinh tế tư nhân ngày càng có vai trò quan trọng
Khái quát về thực trạng khu vực KTTN, Thủ tướng dành nhiều thời gian phân
tích chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển KTTN; kết quả đạt
được; tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; yêu cầu về chính sách đột phá phát triển
KTTN.
Thủ tướng cho biết trong gần 40 năm qua, từ khi Đổi mới đến nay, quan
điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với KTTN đã được
thể hiện rất rõ tại các Văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, các Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định, Nghị
quyết của Chính phủ cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển
KTTN.
KTTN ngày càng có vai trò quan trọng, thể hiện rõ qua Nghị quyết của các
kỳ Đại hội Đảng.
Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) khẳng định sự tồn tại của KTTN gắn với
nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó nêu rõ "sử dụng kinh tế tư bản tư
nhân trong một số ngành, nghề".
Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) cho phép KTTN "phát triển không
hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp
không cấm".
Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996) thừa nhận vai trò KTTN "kinh tế
tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước".
Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) nhìn nhận cởi mở hơn về KTTN:
"khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm".
Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) xác định KTTN có vai trò quan trọng và
yêu cầu: xoá bỏ mọi rào cản, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại
hình doanh nghiệp tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề,
lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011) xác định rõ vai trò, vị trí của KTTN
và yêu cầu "hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh KTTN trở
thành một trong những động lực của nền kinh tế".
Đại hội Đảng lần thứ XII (năm 2016) và Đại hội Đảng lần thứ XIII (năm
2021) khẳng định và nhấn mạnh "hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích,
tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở
thành một động lực quan trọng của nền kinh tế".
Thủ tướng cho biết, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành
nhiều chủ trương, chính sách phát triển về KTTN, nổi bật là Nghị quyết số
14-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị Trung ương 5 khoá IX "Về tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN";
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khoá XII về
"Phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN"; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ
Chính trị về "Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam
trong thời kỳ mới".
Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện trên cơ sở cụ thể hoá các
chủ trương, đường lối, quan điểm, định hướng của Đảng, tạo khung pháp lý thống
nhất, thuận lợi cho KTTN phát triển, bảo đảm quyền tự do kinh doanh bình đẳng.
Từ năm 2017 đến nay, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành gần 60 luật,
hơn 40 nghị quyết, pháp lệnh, 17 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; Chính
phủ ban hành khoảng 1.000 nghị định có liên quan đến KTTN.
Giai đoạn 2021 đến nay, khu vực KTTN gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của
đại dịch COVID-19, tăng trưởng kinh tế toàn cầu phục hồi chậm và tiềm ẩn nhiều
rủi ro, Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nhiều
chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh và người
lao động . Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp rất kịp thời và tương đối toàn
diện với các chính sách về giảm, giãn, hoãn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất,
khoanh nợ, hoãn nợ…
Đồng thời, Chính phủ đã ban hành nhiều đề án, chương trình, kế hoạch liên
quan đến phát triển KTTN trên các lĩnh vực (tiêu biểu như Đề án phát triển
nguồn nhân lực chuyển đổi số; Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân
kinh doanh bền vững; Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, Chương trình
phát triển công nghiệp hỗ trợ...).
5 giai đoạn phát triển của kinh tế tư nhân
Về kết quả đạt được, Thủ tướng đánh giá quá trình phát triển của khu vực KTTN
trong gần 40 năm qua có thể được khái quát thành 5 giai đoạn: (1) Giai đoạn
1986 - 1999: hình thành và được thừa nhận; (2) Giai đoạn 2000 - 2005: Khởi sắc
với Luật Doanh nghiệp; (3) Giai đoạn 2006 - 2015: Hội nhập và mở rộng; (4) Giai
đoạn 2016 - 2024: Khởi nghiệp bùng nổ và là động lực quan trọng trong phát
triển kinh tế; (5) Giai đoạn từ năm 2025 trở đi: Định hướng phát triển KTTN trở
thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.
Đánh giá khái quát về kết quả và đóng góp của KTTN trong quá trình đổi
mới, hội nhập và phát triển, Thủ tướng nêu rõ: KTTN liên tục phát triển, khẳng
định vị thế là một động lực quan trọng của nền kinh tế; là kênh huy động hiệu
quả các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển; góp phần quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách Nhà nước; tạo việc làm, sinh kế, thu
nhập, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; thúc đẩy hội nhập
quốc tế; đóng góp phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi
số; đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển
đất nước.
Một số kết quả nổi bật của KTTN cụ thể, Thủ tướng cho biết số lượng doanh
nghiệp thành lập tăng mạnh, từ khoảng 5.000 doanh nghiệp năm 1990 lên 50.000
doanh nghiệp năm 2000, và 200.000 năm 2005 (gấp 40 lần sau 15 năm); đến nay có
gần 1 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế.
KTTN liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, là khu vực có đóng góp lớn
nhất trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng khoảng 50% GDP. Từ năm 2016 đến nay, tốc
độ tăng trưởng của khu vực KTTN đạt khoảng 6-8%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng
bình quân của nền kinh tế.
Khu vực KTTN đóng góp rất quan trọng tạo việc làm, thúc đẩy tái cấu trúc
nền kinh tế, đặc biệt ở vùng nông thôn, địa bàn khó khăn. Giai đoạn 2017-2024,
khu vực KTTN sử dụng bình quân hơn 43,5 triệu lao động, chiếm hơn 82% tổng số
lao động có việc làm trong nền kinh tế.
Tỷ trọng vốn đầu tư của KTTN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng
nhanh, từ 44% năm 2010 lên 56% năm 2024; đóng góp hơn 30% tổng thu NSNN, khoảng
30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
KTTN là khu vực năng động trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm và
dịch vụ. Các doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo tăng nhanh, từ 1.500
startup năm 2015 lên khoảng 4.000 startup vào năm 2024. Nhiều tập đoàn, doanh
nghiệp lớn đang hình thành, phát triển, vươn tầm khu vực, quốc tế.
Đội ngũ doanh nhân ngày càng phát triển lớn mạnh, tinh thần kinh doanh,
tinh thần đổi mới và khát vọng vươn lên ngày càng mạnh mẽ; đặc biệt, ngay cả
trong những thời kỳ khó khăn, thiên tai, dịch bệnh, các doanh nghiệp, doanh
nhân vẫn nỗ lực duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, thể hiện trách nhiệm xã
hội với cộng đồng.
Bên cạnh đó, mặc dù có nhiều đóng góp quan trọng, khu vực KTTN vẫn còn
những tồn tại, hạn chế. Mục tiêu phát triển KTTN đề ra tại Nghị quyết 10-NQ/TW năm
2017 (đạt 1,5 triệu doanh nghiệp và đóng góp 55% GDP vào năm 2025) vẫn chưa đạt
được.
Gần 98% doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quy mô nhỏ và vừa (DNNVV), siêu
nhỏ (gần 70% quy mô siêu nhỏ), sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản
trị còn hạn chế; năng suất lao động thấp hơn khu vực doanh nghiệp FDI và doanh
nghiệp nhà nước; tỷ lệ DNTN tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI
thấp (chỉ khoảng 21%).
Tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động bình quân đạt khoảng 10 doanh
nghiệp/1.000 dân vào năm 2024, thấp hơn so với các nước trong khu vực. Tốc độ
doanh nghiệp rút khỏi thị trường tăng, phản ánh tình trạng khó khăn do biến
động bất lợi của tình hình quốc tế, trong nước.
Việc tiếp cận các nguồn lực còn khó khăn, nhất là về tài chính, tín dụng,
đất đai, nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đối với DNNVV (chiếm gần
98% số lượng doanh nghiệp nhưng tiếp cận chưa đến 20% tổng dư nợ tín dụng). Các
DNTN chiếm chưa đến 10% tổng vốn hóa thị trường chứng khoán.
Kết nối giữa các DNTN, giữa DNTN với doanh nghiệp Nhà nước và doanh
nghiệp FDI còn hạn chế (chỉ có 18% doanh nghiệp có kết nối chuỗi giá trị toàn
cầu, trong đó doanh nghiệp lớn chiếm đến 62%, còn lại là doanh nghiệp nhỏ và
vừa).
Một bộ phận DNTN chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật, thông tin chưa minh
bạch, thiếu tầm nhìn chiến lược; đạo đức, văn hóa kinh doanh còn hạn chế (cạnh
tranh thiếu lành mạnh, sản xuất hàng nhái, hàng kém chất lượng, vi phạm hợp
đồng…). Một số DNTN còn tham gia vào buôn lậu, trốn thuế, thao túng thị trường,
găm hàng, đội giá…
Qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, Thủ tướng chỉ rõ những bất
cập mang tính căn cơ: Nhận thức về KTTN còn hạn chế, quan điểm chưa cởi mở;
công tác lãnh đạo, chỉ đạo còn bất cập; tổ chức thực hiện pháp luật, cơ chế,
chính sách về KTTN chưa thực sự kịp thời, hiệu quả; một bộ phận DNTN chưa thực
sự chủ động, linh hoạt, tự lực, tự cường, nỗ lực vươn lên.
Phân tích nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, Thủ tướng cho rằng Việt Nam vẫn là
nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, quy mô kinh tế còn khiêm
tốn, sức chống chịu còn hạn chế. Thể chế, pháp luật vẫn là "điểm nghẽn của
điểm nghẽn". Thủ tục hành chính còn vướng mắc; chỉ số môi trường kinh
doanh của Việt Nam năm 2023 xếp hạng 70/190 quốc gia, thấp hơn một số nước
trong khu vực.
Một số điều kiện kinh doanh không cần thiết, thiếu tính khả thi chưa được
bãi bỏ, sửa đổi kịp thời; thủ tục đầu tư, kinh doanh trong một số ngành, lĩnh
vực còn phức tạp, thiếu minh bạch; một số chính sách hỗ trợ DNTN khó thực hiện
(như hỗ trợ đầu tư nghiên cứu phát triển, ưu đãi thuế, khuyến khích hộ kinh
doanh chuyển thành doanh nghiệp…).
Năng lực nội tại của KTTN còn hạn chế, nhất là về vốn, quản trị, ứng dụng
khoa học công nghệ, chuyển đổi số, áp dụng các mô hình kinh doanh mới như kinh
tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.
Tư duy, nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức còn mang nặng tính
"xin - cho"; còn tình trạng thiếu trách nhiệm, nhũng nhiễu, tiếp tay
cho tiêu cực, lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí.
Khái quát ngắn gọn, Thủ tướng cho rằng phát triển KTTN còn nhiều khó khăn
do nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chính, từ
nhận thức tới định hướng, tổ chức thực hiện, quản lý nhà nước, vấn đề tổng kết,
tôn vinh KTTN… tuy đã có rất nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng, sự phát triển của khu vực KTTT và chưa tương xứng với mong muốn của chúng
ta.
Xóa bỏ rào cản, tư duy 'không quản được thì cấm'
Thủ tướng cho biết, từ thực tiễn phát triển KTTN nước ta những năm qua và
kinh nghiệm quốc tế, có thể đúc kết một số bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN là một
động lực quan trọng nhất và là trụ cột chính của nền kinh tế quốc gia, tạo sự
đồng thuận cao trong xã hội và hành động mạnh mẽ hỗ trợ KTTN phát triển.
Thứ hai, nâng cao vai trò kiến tạo, dẫn dắt của Nhà nước, tăng cường năng lực
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, xây dựng thể chế và tổ chức thực hiện, có cơ chế,
chính sách đột phá, xoá bỏ mọi rào cản, tư duy "không quản được thì
cấm" để phát triển KTTN, đẩy mạnh hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân.
Thứ ba, bảo đảm KTTN được đối xử công bằng, bình đẳng với các thành phần kinh tế
khác; có cơ chế, chính sách, giải pháp vượt trội, đột phá để khơi thông, huy
động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là cho nghiên cứu phát triển, đổi
mới sáng tạo, chuyển đổi số; đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hoá, giảm chi phí thủ
tục hành chính.
Thứ tư, ưu tiên, hỗ trợ các doanh nghiệp lớn, tiên phong dẫn dắt một số ngành,
lĩnh vực then chốt, trọng yếu; thúc đẩy mạnh mẽ liên kết giữa doanh nghiệp
trong nước với các doanh nghiệp FDI; hỗ trợ DNTN vươn ra thị trường quốc tế,
xây dựng thương hiệu quốc tế.
Thứ năm, tập trung đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có chính
sách đãi ngộ vượt trội để thu hút nhân tài, nhất là trong các lĩnh vực công
nghệ cao, ngành nghề mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ KTTN.
Phân tích yêu cầu về chính sách đột phá phát triển KTTN, Thủ
tướng chỉ rõ các yếu tố khách quan từ tình hình thế giới và yêu cầu chủ quan.
Trong bối cảnh mới nhiều khó khăn, thách thức, những cũng có cơ hội mới, thời
cơ mới cho phát triển đất nước, để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển KTXH đã đề ra, nhất là hai mục tiêu chiến lược 100 năm, đòi hỏi
chúng ta phải đổi mới tư duy, nhận thức, tầm nhìn; quyết liệt hành động mạnh mẽ
hơn, khơi thông mọi động lực cho phát triển đất nước; đặc biệt là sự cấp thiết
phải xoá bỏ mọi định kiến, phát huy vai trò, tạo sự đột phá phát triển KTTN để
thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước trong
tình hình mới.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ đã khẩn trương thành lập
Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển KTTN do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng
ban; thường xuyên xin ý kiến và nhận sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
đặc biệt là ý kiến chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư; huy động sự tham
gia ý kiến tích cực của các cấp, các ngành, các địa phương, các chuyên gia,
hiệp hội, doanh nghiệp.
Trong một thời gian ngắn (2 tháng) đã trình Bộ Chính trị ban hành Nghị
quyết số 68-NQ/TW; trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày
17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển KTTN; ban hành Nghị
quyết số 138/NQ-CP ngày 16/5/2025 về Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết
68-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 về Kế hoạch
triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội.
Cùng với đó, chúng ta cũng đang tiến hành cuộc cách mạng về tổ chức bộ
máy, tạo không gian phát triển mới, cắt giảm đầu mối, khâu trung gian, tăng
cường cho cơ sở, cắt giảm thủ tục, chuyển mạnh từ trạng thái thụ động sang chủ
động phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Giải
quyết những vấn đề quan trọng, cấp bách nhất
Về nội dung chính của Nghị quyết 68, Thủ tướng nêu rõ các quan điểm chỉ
đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và việc tổ chức thực hiện.
Thủ tướng cho biết, Nghị quyết 68-NQ/TW đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo mang
tính đột phá về phát triển KTTN, trong đó nổi bật là:
(1) KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Thực tiễn
đổi mới ở nước ta và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đây là lực lượng tiên phong
thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng
cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, hội nhập quốc tế.
(2) Phát triển KTTN nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là
nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Đây là yêu cầu
tất yếu khách quan, trong đó KTTN là phương thức quan trọng nhất để giải phóng
sức sản xuất, kích hoạt, huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là
trong nhân dân.
(3) Xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về
KTTN; coi doanh nhân là những chiến sỹ trên mặt trận kinh tế. Chỉ có như vậy,
chúng ta mới thực sự bảo đảm KTTN bình đẳng với các thành phần kinh tế khác,
nhất là trong tiếp cận các nguồn lực.
(4) Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bảo đảm khả năng
cạnh tranh khu vực, toàn cầu; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, làm giàu hợp
pháp, đóng góp cho đất nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo
nền tảng vững chắc thúc đẩy phát triển mạnh mẽ và phát huy vai trò của KTTN
tham gia các nhiệm vụ quan trọng, chiến lược của quốc gia, vươn tầm khu vực,
thế giới.
(5) Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh
nghiệp là trung tâm, là chủ thể; tôn vinh, cổ vũ, phát triển đội ngũ doanh nhân
lớn mạnh. Qua đó, góp phần thúc đẩy, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân
tộc, khát vọng cống hiến của đội ngũ doanh nhân cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc.
Cho rằng cần phát động phong trào toàn dân thi đua làm giàu trên phạm vi
cả nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Thủ tướng nhấn mạnh
"thương trường là chiến trường", cần tạo động lực, truyền cảm hứng
cho các chiến sỹ trên mặt trận kinh tế cống hiến vì đất nước.
Để đạt được các mục tiêu đề ra tới năm 2030, 2045, Nghị quyết đề
ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thể hiện tinh thần đổi mới, đột phá, cải cách
mạnh mẽ, bảo đảm bám sát 3 đột phá chiến lược (về thể chế, nguồn nhân lực, kết
cấu hạ tầng) và trong tổng thể 04 Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị, gồm:
(1) Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng
tạo và chuyển đổi số; (2) Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình
hình mới; (3) Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp
luật; (4) Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển KTTN.
Thủ tướng cho biết, nội dung trọng tâm của 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là
nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng, cấp bách nhất đối với phát triển KTTN
hiện nay. Đó là: (1) Đổi mới tư duy, nhận thức và hành động; (2) Cải cách, nâng
cao chất lượng thể chế; (3) Tăng cường tiếp cận các nguồn lực; (4) Thúc đẩy
khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; (5) Tăng cường kết nối
doanh nghiệp; (6) Phát triển DNTN lớn; (7) Hỗ trợ DNTN nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh
doanh; (8) Phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân.
Nhóm thứ nhất, đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động,
khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát
triển KTTN.
Thủ tướng nêu rõ, đây là yêu cầu trước hết và có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, tạo tiền đề cho phát triển KTTN; yêu cầu các cơ quan truyền thông, báo
chí chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền (cổ vũ, lan
toả những mô hình tốt, cách làm hay, khích lệ tinh thần kinh doanh của doanh
nghiệp, doanh nhân; nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa thông tin
sai sự thật, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân).
Nhóm 2, đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính
sách, bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh
doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng của KTTN và bảo đảm thực thi hợp đồng của
KTTN.
Nhóm nhiệm vụ, giải pháp này nhằm giải quyết triệt để, hiệu quả vấn đề
thể chế, không để thể chế tiếp tục là "điểm nghẽn của điểm nghẽn", mà
là động lực thúc đẩy mạnh mẽ KTTN phát triển. Tinh thần đặt ra là phải đổi mới
tư duy xây dựng và thực thi pháp luật; xoá bỏ các rào cản hành chính, cơ chế
"xin - cho", tư duy "không quản được thì cấm"; khắc phục
triệt để tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu nhất quá giữa giữa các bộ,
ngành, địa phương; chủ động kiến tạo một môi trường thể chế thuận lợi nhất; tập
trung giải quyết về bản chất những vấn đề cốt lõi nhất về bảo đảm quyền sở hữu,
quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng, thực thi hợp
đồng; phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự để củng cố niềm
tin của doanh nghiệp, doanh nhân, thúc đẩy phát triển KTTN.
Về cải cách, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, xoá bỏ các rào cản tiếp cận thị trường; tạo mọi thuận lợi trong giải
quyết thủ tục hành chính. Chuyển từ nền hành chính công vụ, quản lý là chủ yếu
sang phục vụ và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm.
Không phân biệt đối xử giữa KTTN với các thành phần kinh tế khác trong huy
động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực; hoàn thiện thể chế, có cơ chế, chính
sách đặc biệt thúc đẩy phát triển KTTN.
Về phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự, Nghị quyết
nêu rõ: Bảo đảm nguyên tắc khi xử lý các sai phạm, vụ việc về dân sự kinh tế,
ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép
được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại. Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp
luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không
áp dụng xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện
pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các
biện pháp xử lý tiếp theo. Không hồi tố các quy định pháp luật để xử lý bất lợi
cho doanh nghiệp. Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong quá trình điều tra,
xét xử các vụ án. Bảo đảm giá trị niêm phong, kê biên, tạm giữ, phong toả tương
ứng với dự kiến hậu quả thiệt hại trong vụ án. Phân biệt rõ tài sản hình thành
hợp pháp với tài sản có được từ hành vi vi phạm pháp luật, tài sản khác liên
quan đến vụ án; giảm thiểu tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhóm 3 là tạo thuận lợi cho KTTN tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn,
nhân lực chất lượng cao. Theo Thủ tướng, đây cũng là điểm mới của Nghị quyết, trong
đó đưa ra các giải pháp cụ thể đối với những vấn đề đang vướng mắc.
Theo đó, tăng cường cơ hội tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh
cho KTTN; đẩy mạnh và đa dạng hoá nguồn vốn cho KTTN; nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho KTTN.
Nhóm 4 là thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số,
chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong KTTN, với các cơ chế,
chính sách đột phá.
Đơn cử, tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển bằng 200% chi phí thực tế;
trích tối đa 20% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập quỹ phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; được sử dụng quỹ để tự
triển khai hoặc đặt hàng nghiên cứu phát triển bên ngoài theo cơ chế khoán sản
phẩm.
Nhóm 5 là tăng cường kết nối giữa các DNTN, DNTN với doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp FDI.
Nhóm 6 là hình thành và phát triển nhanh các doanh nghiệp vừa và lớn, tập
đoàn KTTN tầm cỡ khu vực và toàn cầu. Đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả các
hình thức hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân thông qua các mô hình "lãnh đạo
công - quản trị tư", "đầu tư công - quản lý tư", "đầu tư tư
- sử dụng công".
Xây dựng, triển khai chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu
biểu, tiên phong trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và
chuyển đổi xanh; Chương trình vươn ra thị trường quốc tế (Go Global)…
Nhóm 7 là hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ
kinh doanh.
Trong đó, thực hiện hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia,
nhất là cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, ưu tiên chủ doanh
nghiệp, hộ kinh doanh là thanh niên, phụ nữ, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc
thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và các mô hình kinh doanh bao trùm, tạo
tác động xã hội.
Nhóm 8 là đề cao đạo đức kinh doanh, phát huy trách nhiệm xã hội, thúc
đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân
tham gia quản trị đất nước.
Theo đó, tôn vinh, biểu dương, khen thưởng các doanh nhân, doanh nghiệp
điển hình, tiên tiến, kinh doanh hiệu quả, bền vững, thực hiện tốt trách nhiệm
xã hội, tham gia tích cực các hoạt động vì cộng đồng.
Thiết lập mối quan hệ giữa các cấp uỷ đảng, chính quyền với DNTN chặt
chẽ, thực chất, chia sẻ, cởi mở, chân thành; phát huy vai trò góp ý, phản biện
chính sách của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp. Xây dựng tổ chức Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phát triển Đảng trong khu vực DNTN, doanh nhân.
Về tổ chức thực hiện, Bộ Chính trị giao nhiệm vụ cụ thể cho Đảng uỷ Quốc hội,
Đảng uỷ Chính phủ, các Ban Đảng ở Trung ương, Đảng uỷ các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan trực thuộc Chính phủ, Toà án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương Đảng uỷ Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương trong triển khai thực hiện Nghị quyết
68-NQ/TW.
Về Kế hoạch hành động của Chính phủ, Thủ tướng cho biết, Kế hoạch được ban
hành nhằm cụ thể hoá, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các
nhóm nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị. Phương châm
đặt ra là phải tập trung thực hiện với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động
quyết định, xác định rõ trọng tâm, trọng điểm. Phân công nhiệm vụ phải bảo đảm
cụ thể, rõ ràng cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện với tinh thần "6
rõ: rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết
quả".
Bám sát 5 quan điểm chỉ đạo, các mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045 và 08 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu theo Nghị quyết số
68-NQ/TW, Chương trình hành động của Chính phủ đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ với 117
nhiệm vụ cụ thể, giao cho từng bộ, ngành, các địa phương chủ trì hoặc phối hợp
triển khai thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, với thời hạn, kết quả
cụ thể.
Thủ tướng cũng cho biết, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 198/2025/
QH15 ngày
17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển KTTN với một số nội
dung chủ yếu: Về cải thiện môi trường kinh doanh; về hỗ trợ tiếp cận đất đai,
mặt bằng sản xuất kinh doanh; về hỗ trợ tài chính, tín dụng và mua sắm công; về
hỗ trợ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nhân
lực; về hỗ trợ hình thành doanh nghiệp vừa và lớn, doanh nghiệp tiên phong; về
điều khoản thi hành.
Ngay trong ngày 17/5/2025, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị quyết số
139/NQ-CP về Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc
hội, trong đó giao nhiệm vụ cụ thể với thời hạn cụ thể cho các bộ, cơ quan, địa
phương để tập trung triển khai thực hiện, phát huy hiệu quả ngay từ thời điểm
ban hành.
Các mục
tiêu theo Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị:
(1) Đến năm 2030:
- Kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển
khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng
lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.
- Có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động
trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân; có ít nhất 20 doanh
nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
- Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt
khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng
55-58% GDP, 35-40% tổng thu NSNN; giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số
lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm.
- Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới
sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng
đầu châu Á.
(2) Tầm nhìn đến năm
2045:
Kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển
nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu;
có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có
ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên
60% GDP.
Hà Văn
Nguồn:
Chinhphu.vn(18/5/2025)